Năm 2014, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tổ chức trọng thể kỷ niệm 70 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944 - 22/12/2014) và 25 năm Ngày Hội Quốc phòng toàn dân (22/12/1989 - 22/12/2014). Trải qua 70 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự nuôi dưỡng và đùm bọc của nhân dân, Quân đội nhân dân Việt Nam với truyền thống chiến đấu và chiến thắng oanh liệt, đã góp phần làm rạng rỡ thêm truyền thống anh hùng của dân tộc ta.
Kỷ niệm 70 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam và 25 năm Ngày Hội Quốc phòng toàn dân là dịp chúng ta ôn lại truyền thống anh hùng của Quân đội nhân dân Việt Nam, một quân đội cách mạng do Đảng và Bác Hồ sáng lập, rèn luyện, một quân đội từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu nhằm khơi dậy và phát huy truyền thống yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, ý chí quyết chiến, quyết thắng và tinh thần sáng tạo của quân và dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
I- QUÁ TRÌNH RA ĐỜI, CHIẾN ĐẤU, XÂY DỰNG VÀ TRƯỞNG THÀNH CỦA QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
1- Quá trình ra đời của Quân đội nhân dân Việt Nam
Ngay từ khi ra đời (3/2/1930), Đảng ta đã khẳng định con đường giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc là dùng bạo lực cách mạng để giành chính quyền và tất yếu phải tổ chức lực lượng vũ trang cách mạng để làm nòng cốt cho toàn dân tiến hành đấu tranh cách mạng. Trong phong trào cách mạng những năm 1930 - 1931, từ lực lượng khởi nghĩa của công nông trong cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, Đội tự vệ công nông (Tự vệ đỏ) đã ra đời. Đó là mầm mống đầu tiên của lực lượng vũ trang cách mạng, của quân đội cách mạng Việt Nam.
Tháng 9/1939, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, cách mạng Việt Nam chuyển hướng chiến lược, đặt nhiệm vụ trọng tâm vào giải phóng dân tộc, tích cực chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Trong phong trào đánh Pháp đuổi Nhật, các cuộc khởi nghĩa từng phần và chiến tranh du kích cục bộ đã diễn ra trên nhiều địa phương. Hàng loạt tổ chức vũ trang được thành lập như đội du kích Bắc Sơn, du kích Nam Kỳ, Cứu quốc quân…
Sự phát triển mạnh mẽ, rộng khắp của phong trào đấu tranh trong quần chúng nhân dân và sự trưởng thành nhanh chóng của các tổ chức vũ trang quần chúng đòi hỏi lúc này phải có một đội quân chủ lực thống nhất về mặt tổ chức để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng giải phóng dân tộc. Sau một thời gian khẩn trương chuẩn bị, ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập tại châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng theo Chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thực hiện Chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Trận đầu nhất định phải thắng”. Ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân ra quân đánh thắng trận đầu tiên vào đồn Phai Khắt thuộc tổng Kim Mã, châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng; tiếp đó, ngày 26/12/1944, tiêu diệt đồn Nà Ngần (cách Phai Khắt 15km về phía Đông Bắc). Đây là hai trận đánh đầu tiên thể hiện sự gan dạ, mưu trí, tinh thần triệt để chấp hành mệnh lệnh trong chiến đấu của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Hai trận thắng có tiếng vang lớn, cổ vũ phong trào cách mạng trong khu căn cứ Cao - Bắc - Lạng, mở đầu truyền thống quyết chiến, quyết thắng, biết đánh và biết thắng, đánh thắng ngay trận đầu của Quân đội nhân dân Việt Nam. Trước yêu cầu của cách mạng trong tình hình mới, tháng 4/1945, Hội nghị quân sự Bắc Kỳ của Đảng quyết định hợp nhất các tổ chức vũ trang trên cả nước thành Việt Nam giải phóng quân.
Năm 1945, thời cơ nhân dân Việt Nam vùng lên giành độc lập đã đến, cả nước sôi sục khí thế cách mạng. Trung ương Đảng quyết định phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Theo lệnh Tổng khởi nghĩa của Trung ương Đảng, Việt Nam giải phóng quân cùng với lực lượng vũ trang các địa phương và nhân dân cả nước tiến hành tổng khởi nghĩa thắng lợi giành chính quyền trên toàn quốc. Cách mạng Tháng Tám thành công, Việt Nam giải phóng quân được đổi tên thành vệ quốc quân, rồi thành Quân đội quốc gia Việt Nam và đến năm 1950 được đổi tên là Quân đội nhân dân Việt Nam cho đến ngày nay.
Ngày 22/12/1944, ngày thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được Đảng và Nhà nước quyết định lấy làm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam. Ngày 17/10/1989, thể theo nguyện vọng của nhân dân trong cả nước, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VI) quyết định lấy Ngày kỷ niệm thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944), đồng thời là Ngày Hội Quốc phòng toàn dân.
2- Quân đội nhân dân Việt Nam chiến đấu, xây dựng và trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954)
Cách mạng Tháng Tám vừa giành được thắng lợi, quân và dân ta lại đứng trước những khó khăn chồng chất, đặc biệt là chống giặc ngoại xâm. Thực dân Pháp với bản chất ngoan cố, chưa cam chịu thất bại, ngày 23/9/1945 đã trắng trợn gây hấn ở Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai.
Đêm 19 rạng ngày 20/12/1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Mở đầu ở Hà Nội, với tinh thần “Cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh”, các chiến sĩ Vệ quốc quân, Công an xung phong, tự vệ chiến đấu đã anh dũng đánh địch. Cùng với Hà Nội, quân và dân ta ở nhiều địa phương cũng tiến công tiêu diệt và vây hãm quân địch, tạo điều kiện cho cả nước chuyển vào kháng chiến lâu dài.
Trong năm 1947, thực dân Pháp mở nhiều cuộc tiến công lớn trên Việt Bắc hòng tiêu diệt cơ quan lãnh đạo kháng chiến và bộ đội chủ lực của ta, kết thúc “chớp nhoáng” cuộc chiến tranh xâm lược. Quân và dân ta liên tiếp đánh chặn và phản công tiêu diệt địch ở khắp nơi, nổi bật là trận Bình Ca (Tuyên Quang), Bông Lau (Cao Bằng), Đoan Hùng, Khu Lau trên sông Lô… Đây là những thắng lợi quy mô lớn đầu tiên của quân và dân ta, làm phá sản chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp, đưa cuộc kháng chiến của quân và dân ta chuyển sang giai đoạn mới.
Tháng 6/1950, ta mở chiến dịch Biên giới, nhằm mục đích tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng một phần biên giới, mở đường thông sang các nước xã hội chủ nghĩa anh em, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc. Trong thế trận chiến tranh nhân dân phát triển, ta đã kìm giữ, phân tán lực lượng địch, tạo điều kiện cho bộ đội chủ lực mở những chiến dịch tiến công và phản công, lập chiến công oanh liệt ở Tây Bắc, Hòa Bình, đồng bằng Bắc Bộ, Bình Trị Thiên, Tây Nguyên, Liên khu 5, Nam bộ, Thượng Lào…
Vừa chiến đấu, vừa xây dựng lực lượng, quân đội ta đã có bước trưởng thành nhanh chóng. Từ Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân với những trang bị thô sơ, quy mô nhỏ bé, đến những năm 1950 - 1952, quân đội ta đã xây dựng được các sư đoàn, đại đoàn chủ lực và lần lượt hình thành các binh chủng kỹ thuật, từ đó quân đội ta đã lớn mạnh cả về quy mô và khả năng tác chiến.
Trước những thay đổi trong cục diện chiến tranh ở Đông Dương và trên cơ sở đánh giá so sánh lực lượng giữa ta và địch, tháng 9/1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định mở cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954. Với các đòn tiến công chiến lược, ta đã tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn và làm phá sản âm mưu tập trung lực lượng cơ động của kế hoạch Na - va, buộc chúng phải căng ra đối phó ở khắp mọi nơi, ta hoàn toàn nắm quyền chủ động, kế hoạch Na - va bắt đầu bị phá sản.
Trước thời cơ thuận lợi, tháng 12/1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Sau ba đợt tấn công từ ngày 13/3/1954 đến 17 giờ 30 phút ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, lá cờ “Quyết chiến, Quyết thắng” của quân đội ta tung bay trên nóc hầm chỉ huy của địch.
Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ toàn thắng, kết thúc oanh liệt cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954 của quân và dân ta. Đây là cuộc tiến công chiến lược lớn nhất của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã đánh sập dã tâm xâm lược nước ta của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đưa đến việc ký Hiệp định Giơneve về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương, buộc thực dân Pháp phải công nhận độc lập dân tộc, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam.
3- Quân đội nhân dân Việt Nam chiến đấu, xây dựng và trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975)
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ đã mở ra một giai đoạn phát triển mới của cách mạng Việt Nam. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng và bước vào thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đánh đuổi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, đấu tranh thống nhất đất nước.
Ngay sau khi thực dân Pháp thua trận, đế quốc Mỹ ráo riết thực hiện âm mưu hất cẳng Pháp, xâm lược và thống trị bằng chủ nghĩa thực dân mới, xây dựng miền Nam thành căn cứ quân sự của Mỹ, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta. Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới, quân đội nhân dân phải là “Trụ cột bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hòa bình”, Đảng ta quyết định xây dựng quân đội nhân dân thành một quân đội cách mạng, chính quy, hiện đại. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, từ 1954 - 1960 quân đội ta đã có bước trưởng thành mới, từ lực lượng chủ yếu là bộ binh, tổ chức chưa thật thống nhất, trang bị còn thiếu thốn, trở thành quân đội chính quy, ngày càng hiện đại, gồm các quân chủng: Lục quân, Hải quân, Phòng không - Không quân. Đây là bước trưởng thành rất quan trọng của quân đội ta, tạo cơ sở để bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Ở miền Nam, trong những năm 1954 - 1960, Mỹ - Diệm thực hiện chính sách khủng bố tàn bạo. Trước tình hình đó, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương cách mạng miền Nam phải chuyển sang đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang, dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quần chúng cách mạng có sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang đã vùng lên khởi nghĩa giành chính quyền ở nhiều vùng nông thôn. Phong trào "Đồng Khởi" giành chính quyền ở Bến Tre đã nhanh chóng lan rộng ra nhiều tỉnh ở Nam bộ, Khu 5, Tây Nguyên... tạo thành các vùng căn cứ rộng lớn. Nhiều đơn vị dân quân, du kích và bộ đội địa phương được thành lập. Trong những năm 1961 - 1964, quân và dân miền Nam đã giành thắng lợi vang dội trên các chiến trường. Điển hình là chiến thắng "Ấp Bắc", chiến thắng Bình Giã, Ba Gia, Đồng Xoài, đánh bại hoàn toàn chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" của Mỹ - ngụy.
Năm 1964, nhằm hạn chế những tổn thất và cứu nguy cho thất bại ở chiến trường miền Nam, sau khi dựng lên sự kiện "Vịnh Bắc Bộ", ngày 5/8/1964, đế quốc Mỹ mở cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân lần thứ nhất, hòng ngăn chặn sự chi viện của hậu phương miền Bắc cho tiền tuyến miền Nam. Các đơn vị hải quân, phòng không, dân quân tự vệ đã nâng cao cảnh giác, hiệp đồng chặt chẽ, mưu trí dũng cảm, chiến đấu kiên cường, bắn rơi 8 máy bay của địch. Trận đầu đánh thắng không quân Mỹ đã cổ vũ quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược của quân và dân cả nước. Ngày 5/8/1964 trở thành Ngày truyền thống đánh thắng trận đầu cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc của Hải quân và Phòng không - Không quân nhân dân Việt Nam.
Năm 1965, đế quốc Mỹ đưa quân cùng một khối lượng lớn phương tiện chiến tranh vào trực tiếp tham chiến trên chiến trường miền Nam Việt Nam. Trước tình hình đó, Trung ương Đảng đã chỉ thị cho các lực lượng vũ trang trên chiến trường miền Nam vừa xây dựng lực lượng, vừa chiến đấu, bẻ gãy nhiều cuộc hành quân quy mô lớn của Mỹ - ngụy. Điển hình là trận thắng Mỹ ở Vạn Tường (8/1965), thắng lợi của các chiến dịch Plâyme (11/1965), Bầu Bàng - Dầu Tiếng (11/1965) và các chiến công vang dội đập tan hai cuộc phản công chiến lược mùa khô (1965 - 1966, 1966 - 1967) của Mỹ ở miền Nam.
Giữa lúc cuộc chiến tranh leo thang của đế quốc Mỹ đến đỉnh cao nhất, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định mở Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 trên toàn chiến trường miền Nam, đồng thời đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất đã làm đảo lộn thế chiến lược trên chiến trường. Tổng thống Mỹ Giôn xơn buộc phải tuyên bố chấm dứt ném bom miền Bắc và chấp nhận đàm phán với ta tại Hội nghị Pari. Nhưng với bản chất ngoan cố và hiếu chiến, đế quốc Mỹ không cam chịu thất bại, từ năm 1969 chúng chuyển sang thực hiện "Học thuyết Ních xơn" và chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh", đồng thời thực hiện "Chiến tranh đặc biệt tăng cường ở Lào, mở rộng chiến tranh sang Campuchia. Quân và dân ta đã phối hợp chặt chẽ với cuộc chiến tranh của nhân dân Lào, Campuchia anh em, giành những thắng lợi to lớn trên chiến trường ba nước Đông Dương, tiêu biểu là chiến dịch Đường 9 Nam Lào (1971).
Năm 1972, đế quốc Mỹ mở cuộc chiến tranh đánh phá miền Bắc lần thứ hai với quy mô lớn, ác liệt hơn lần trước. Một lần nữa quân và dân ta đã anh dũng chiến đấu, trừng trị đích đáng giặc Mỹ, đặc biệt là đánh bại cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B-52 của địch vào Hà Nội, làm nên một "Điện Biên Phủ trên không", buộc chính phủ Mỹ phải tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc và nối lại cuộc đàm phán Pari. Thắng lợi to lớn của quân và dân miền Bắc đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ, cùng với những thắng lợi của quân và dân ta trên khắp các chiến trường miền Nam đã buộc đế quốc Mỹ phải ký kết Hiệp định Pari về Việt Nam (27/1/1973), cam kết tôn trọng độc lập, thống nhất chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, chấm dứt dính líu về quân sự, rút hết quân Mỹ về nước.
Trải qua 70 năm chiến đấu và xây dựng, quân đội ta đã không ngừng trưởng thành, vững mạnh toàn diện cả về tư tưởng và tổ chức. Lực lượng vũ trang nhân dân gồm ba thứ quân: Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích phát triển mạnh mẽ. Để giành thắng lợi hoàn toàn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chúng ta phải tập trung xây dựng một lực lượng quân đội hùng mạnh với quy mô tổ chức cao hơn. Trong hai năm 1973 - 1974, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã quyết định thành lập các quân đoàn chủ lực, đánh dấu bước phát triển mới của Quân đội nhân dân Việt Nam cả về quy mô tổ chức và trang bị vũ khí. Quân đội ta có khả năng mở các chiến dịch tiến công lớn bằng lực lượng binh chủng hợp thành quy mô lớn trên các hướng chiến lược và khả năng tiêu diệt địch với lực lượng lớn.
Sau khi Hiệp định Pari được ký kết, đế quốc Mỹ với bản chất ngoan cố vẫn chưa từ bỏ âm mưu duy trì chế độ thực dân mới, chia cắt lâu dài đất nước ta, tiếp tục viện trợ quân sự cho chính quyền Nguyễn Văn Thiệu chống phá sự nghiệp thống nhất đất nước của nhân dân ta. Trước những âm mưu và hành động mới của Mỹ - ngụy, thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh "Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào", Trung ương Đảng đã chỉ rõ sự xuất hiện thời cơ lịch sử và nêu quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam, đánh bại hoàn toàn cuộc chiến tranh thực dân mới của Mỹ bằng Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975.
Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, từ tháng 3/1975, quân đội ta mở chiến dịch Tây Nguyên, giải phóng thị xã Buôn Ma Thuật, mở đầu Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975. Phát huy thắng lợi trên các mặt trận, Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Hồ Chí Minh nhằm giải phóng Sài Gòn và toàn miền Nam với tinh thần "Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng". Vào lúc 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975 chiến dịch Hồ Chí Minh đã toàn thắng, cờ Tổ quốc tung bay trên nóc Dinh Độc lập, miền Nam hoàn toàn giải phóng.
Chiến dịch Hồ Chí Minh là chiến dịch có quy mô lớn nhất, giành thắng lợi to lớn nhất của quân và dân ta. Chiến dịch thể hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo tài tình, sáng suốt của Đảng ta, đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của Quân đội nhân dân Việt Nam cả về tổ chức lực lượng và trình độ chỉ huy chiến đấu của nghệ thuật quân sự Việt Nam, góp phần quyết định kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
4- Quân đội nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (1975 - 2014)
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã mở ra một giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam, giai đoạn cả nước cùng thực hiện chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đất nước thống nhất, quân đội ta chuyển từ nhiệm vụ thời chiến sang thực hiện nhiệm vụ xây dựng và sẵn sàng chiến đấu trong thời bình. Nhiệm vụ hàng đầu đặt ra cho quân và dân ta lúc này là phải nhanh chóng củng cố các vùng giải phóng, khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục sản xuất, ổn định đời sống của nhân dân.
Quân đội ta đã tích cực tham gia xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng cơ sở ở vùng giải phóng, tổ chức quản huấn binh lính, nhân viên của chế độ cũ, trấn áp các phần tử và tổ chức phản động, truy quét tàn quân địch và Fulro, tích cực tham gia cải tạo tư sản công thương nghiệp, bài trừ các tệ nạn xã hội, góp phần ổn định đời sống nhân dân. Trên mặt trận xây dựng kinh tế, các đơn vị quân đội được giao nhiệm vụ làm kinh tế đã nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong lao động, chịu đựng gian khổ, khắc phục khó khăn, đảm nhiệm xây dựng các công trình kinh tế, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với quốc phòng. Những thành tựu của quân và dân ta đạt được trong những năm đầu xây dựng đất nước thống nhất đã góp phần ổn định đất nước và tăng thêm sức mạnh bảo vệ Tổ quốc.
Trong khi nhân dân cả nước đang ra sức khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định đời sống và tập trung phát triển kinh tế, văn hóa xã hội; các thế lực thù địch vẫn không từ bỏ âm mưu chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Đất nước lại đứng trước nguy cơ vừa có hòa bình, vừa có chiến tranh. Trước tình hình phức tạp mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta đã đánh thắng hai cuộc chiến tranh xâm lược biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế cao cả ở Campuchia. Thắng lợi của quân và dân ta trong hai cuộc chiến tranh biên giới bảo vệ Tổ quốc một lần nữa khẳng định bản chất cách mạng của "Bộ đội Cụ Hồ", dù trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào khi được Đảng, nhân dân giao nhiệm vụ cũng quyết tâm hoàn thành xuất sắc.
Từ năm 1986 đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta đã thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến rất phức tạp. Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, phản động điên cuồng chống phá phong trào cách mạng thế giới. Chúng coi Việt Nam là một trong những trọng điểm chống phá, bao vây cô lập hòng làm suy yếu ta. Chúng thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong nước, một số phần tử phản động lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền… móc nối với một số phần tử cơ hội bất mãn đưa ra những yêu sách chính trị, kích động, chia rẽ, chống phá ta quyết liệt.
Trong bối cảnh phức tạp đó, quân đội ta đã tỏ rõ bản lĩnh chính trị, vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với lý tưởng cách mạng xã hội chủ nghĩa, phát huy cao độ tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, cùng với toàn dân thực hiện sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng quân đội chính quy tinh nhuệ, từng bước hiện đại, củng cố nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong thực hiện nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, quân đội ta đã nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, chủ động và kiên quyết thực hiện tốt nhiệm vụ hàng đầu là chống chiến lược "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ, kịp thời phát hiện, ngăn chặn và làm thất bại mọi âm mưu và hành động phá hoại của các thế lực thù địch, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Trong nhiệm vụ xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, quân đội ta đã giữ vững vị trí, vai trò là lực lượng nòng cốt và tích cực tham gia có hiệu quả vào công cuộc xây dựng nền quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân, làm tròn chức năng tham mưu cho Đảng và Nhà nước trong lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng nền quốc phòng toàn dân.
Trong xây dựng lực lượng, quân đội ta đã tập trung nâng cao một bước chất lượng và sức mạnh chiến đấu theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, luôn đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng vững mạnh về chính trị làm cơ sở để xây dựng quân đội ta vững mạnh toàn diện.
Trong xây dựng, phát triển kinh tế, quân đội ta đã đạt được những thành tựu mới trên các lĩnh vực: nghiên cứu khoa học, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật trong lĩnh vực quốc phòng; tham gia các chương trình phát triển kinh tế, xã hội vùng miền núi, biên giới, hải đảo; các doanh nghiệp quân đội không ngừng đổi mới, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Những thành tích to lớn của quân đội ta đạt được trong những năm đổi mới vừa qua đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, làm thay đổi căn bản thế và lực của đất nước ta trên trường quốc tế và khu vực.
II- TRUYỀN THỐNG VẺ VANG CỦA QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM ANH HÙNG
Trải qua 70 năm vừa chiến đấu gian khổ, vừa xây dựng và trưởng thành dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, được sự nuôi dưỡng và giúp đỡ của nhân dân, quân đội ta không ngừng phát huy bản chất cách mạng tốt đẹp, xây đắp nên truyền thống vẻ vang "Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng". Truyền thống tốt đẹp của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng đã kết tinh thành giá trị và biểu tượng "Bộ đội Cụ Hồ", đó là:
1- Quân đội ta luôn luôn trung thành vô hạn với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, với Đảng, với nhân dân
Quân đội nhân dân Việt Nam là đội quân vũ trang cách mạng tin cậy của Đảng, Nhà nước và của nhân dân; quân đội ta luôn trung thành vô hạn với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân, chiến đấu vì mục tiêu lý tưởng cao cả của Đảng, của dân tộc là giành độc lập, tự do cho Tổ quốc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước Việt Nam. Vì vậy, kiên định mục tiêu, con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, quân đội ta quyết tâm thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước, gắn bó mật thiết với nhân dân.
Quân đội ta lấy mục tiêu cách mạng do Đảng đề ra làm lý tưởng và mục tiêu phấn đấu của mình. Kiên quyết đấu tranh bảo vệ đường lối quan điểm của Đảng, bảo vệ thành quả cách mạng của nhân dân; quân đội ta luôn luôn kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của mình. Nhờ vậy, quân đội ta có được nền tảng chính trị, tư tưởng vững chắc làm cơ sở xây dựng sức mạnh về mọi mặt, chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược và đập tan mọi âm mưu, hành động phá hoại của kẻ thù, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo.
2- Quân đội ta là quân đội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, gắn bó máu thịt với nhân dân
Quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu đã trở thành mục tiêu và phương châm hành động của cán bộ và chiến sĩ trong quân đội. Đó là biểu hiện của sự giác ngộ về mục tiêu và lý tưởng chiến đấu, trách nhiệm chính trị của quân đội đối với nhân dân. Biểu hiện lòng biết ơn sâu sắc, công lao to lớn của nhân dân đối với quân đội. Cán bộ và chiến sĩ luôn sẵn sàng chịu đựng gian khổ, khắc phục khó khăn, chiến đấu và hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa chính là bảo vệ lợi ích của nhân dân.
Quân đội ta biết dựa vào nhân dân mà chiến đấu, mà xây dựng và trưởng thành nên đã vượt qua mọi khó khăn và lập nhiều chiến công to lớn. Cán bộ và chiến sĩ quân đội ta luôn luôn coi việc tôn trọng và bảo vệ lợi ích của nhân dân, tích cực lao động sản xuất, tham gia xây dựng kinh tế để góp phần nâng cao dần đời sống của nhân dân là biểu hiện sinh động bản chất cách mạng của quân đội ta, quân đội của nhân dân lao động, đó cũng là trách nhiệm và nghĩa vụ của quân đội ta.
3- Quân đội ta vừa có tinh thần quyết chiến, quyết thắng, vừa biết đánh và biết thắng
Truyền thống quyết chiến, quyết thắng, biết đánh và biết thắng, kiên cường, dũng cảm, mưu trí và sáng tạo của quân đội ta bắt nguồn từ bản chất cách mạng của Đảng ta, niềm tin tuyệt đối vào sự tất thắng của cách mạng và tiền đồ của dân tộc, vào sức mạnh vô địch của nhân dân ta, là kế thừa tài thao lược, mưu trí sáng tạo và phát huy truyền thống quật cường, bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc, là sự kết tinh chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
Quán triệt đường lối, quan điểm, tư tưởng quân sự của Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của nhân dân, quân đội ta luôn luôn đánh địch trên thế chủ động, tiến công và làm chủ. Quân đội ta đã thực hiện tốt phương châm "vừa chiến đấu, vừa xây dựng", càng đánh càng mạnh, càng trưởng thành, càng thắng lợi.
Tinh thần quyết chiến, quyết thắng của quân đội ta được thể hiện cả trong việc hăng say học tập để không ngừng nâng cao trình độ giác ngộ cách mạng, phát triển khoa học, nghệ thuật quân sự Việt Nam, nắm vững khoa học, kỹ thuật quân sự hiện đại; phát huy tinh thần sáng tạo trong nghiên cứu khoa học, phát minh, sáng chế, cải tiến kỹ thuật nhằm phát huy mọi thế mạnh của ta.
Tinh thần quyết chiến, quyết thắng, biết đánh và biết thắng còn được thể hiện cả trong huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Trong công tác hàng ngày, khi tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, làm bất cứ nhiệm vụ gì, trong hoàn cảnh nào, cán bộ và chiến sĩ đều dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, cần cù, kiên trì, bền bỉ, đem hết tinh thần, nghị lực, trí tuệ và tài năng, ý chí khắc phục mọi khó khăn, kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ.
4- Quân đội ta có tinh thần đoàn kết nội bộ chặt chẽ và ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm minh
Đoàn kết nội bộ chặt chẽ là một yếu tố cơ bản tạo nên sức mạnh tổng hợp của quân đội ta. Kế thừa truyền thống đại đoàn kết dân tộc, tinh thần làm chủ vận mệnh đất nước của dân tộc ta trong mấy nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, cán bộ và chiến sĩ luôn thương yêu nhau như ruột thịt, trên dưới một lòng, chấp hành kỷ luật nghiêm minh của quân đội.
Tinh thần đoàn kết chiến đấu của quân đội ta dựa trên cơ sở đường lối, chính sách của Đảng và chức năng, nhiệm vụ của quân đội trên cơ sở tình thương yêu, gắn bó giữa những người đồng chí cùng chiến đấu và hy sinh cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng, của dân tộc. Toàn quân đoàn kết thành một khối vững chắc, thống nhất ý chí, thống nhất hành động, hết lòng thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, gắn bó, hiệp đồng chặt chẽ, thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ.
Quân đội ta có kỷ luật tự giác và nghiêm minh, dù trong hoàn cảnh nào cán bộ và chiến sĩ đều tự giác giữ vững kỷ luật, chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Trong chiến đấu, công tác, động sản xuất cũng như khi tiếp xúc với nhân dân, cán bộ và chiến sĩ triệt để chấp hành mệnh lệnh, chỉ thị, điều lệnh, điều lệ quân đội, kiên quyết hoàn thành mọi nhiệm vụ.
5- Quân đội ta không chỉ là đội quân chiến đấu giỏi mà còn là đội quân công tác giỏi, đội quân làm kinh tế giỏi
Trong thời kỳ đấu tranh giành độc lập, kháng chiến chống giặc ngoại xâm trước đây cũng như trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay, quân đội ta không chỉ biết chiến đấu và chiến thắng mà còn tích cực tham gia công tác xã hội, lao động sản xuất kinh doanh giỏi; tỏ rõ bản chất cách mạng của đội quân luôn luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được Đảng và nhân dân giao phó trong mọi tình huống.
Quân đội ta tham gia tích cực xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, củng cố quốc phòng an ninh ở các địa phương miền núi, biên giới, hải đảo, vùng căn cứ cách mạng; tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; tham gia xây dựng và củng cố chính quyền cơ sở.
Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp quân đội đã đóng góp nhiều hàng hóa phục vụ đời sống xã hội, hoàn thành nhiều công trình trọng điểm của đất nước, góp phần vào sự tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân; đồng thời phục vụ tốt sự nghiệp quốc phòng, nâng cao sức mạnh và khả năng sẵn sàng chiến đấu của quân đội.
Trong thời kỳ chiến tranh, quân đội cùng với nhân dân đã tham gia thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội, ngày nay đang tích cực tham gia thực hiện các chương trình xã hội: xóa đói giảm nghèo, đóng góp xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa; tham gia giúp dân xóa mù chữ ở vùng sâu, vùng xa... Truyền thống tốt đẹp đó của quân đội ta ngày càng được phát huy trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, góp phần vào việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế, xã hội thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
6- Quân đội ta luôn nêu cao tinh thần đoàn kết quốc tế cao cả, chí nghĩa, chí tình
Thấm nhuần đường lối, quan điểm cách mạng của Đảng, chính sách đối ngoại rộng mở của Nhà nước ta, gắn liền chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản, quân đội ta luôn tăng cường tình đoàn kết gắn bó với quân đội và nhân dân các nước Lào, Campuchia trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm trước đây, cũng như với quân đội và nhân dân nhiều nước trên thế giới hiện nay, góp phần xây dựng tình đoàn kết hữu nghị giữa các dân tộc.
Trong mỗi bước trưởng thành của mình, quân đội ta luôn coi trọng những kinh nghiệm xây dựng và chiến đấu của quân đội các nước anh em, bè bạn, khiêm tốn học tập những kinh nghiệm tiên tiến và vận dụng sáng tạo các kinh nghiệm đó, đồng thời cũng đóng góp những kinh nghiệm của mình với quân đội các nước anh em, bè bạn.
Ngày nay, trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp, quân đội ta hơn lúc nào hết càng phải phát huy bản chất cách mạng, phẩm chất cao quý "Bộ đội Cụ Hồ", kiên trì xây dựng, phát triển mối quan hệ đoàn kết hữu nghị với quân đội và nhân dân các nước, phấn đấu vì mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
III- PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG "BỘ ĐỘI CỤ HỒ" XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN, XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN ĐÁP ỨNG YÊU CẦU, NHIỆM VỤ CÁCH MẠNG TRONG TÌNH HÌNH MỚI
Hiện nay, tình hình thế giới và khu vực đang có những diễn biến phức tạp: chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động khủng bố, đe dọa khủng bố... xảy ra ở nhiều nơi với tính chất phức tạp ngày càng tăng. Trong nước, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, chúng ta cũng gặp không ít những khó khăn, thách thức mới. Các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh chiến lược "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ; bốn nguy cơ vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp, đan xen tác động lẫn nhau; những vấn đề xã hội bức xúc nếu không được giải quyết triệt để sẽ là nguy cơ tiềm ẩn đối với sự ổn định về chính trị. Những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch và tình hình trong nước đặt ra cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta những yêu cầu, nhiệm vụ mới cao hơn.
Phát huy truyền thống vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta tiếp tục đẩy mạnh nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại đáp ứng những yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới.
1- Xây dựng đất nước gắn chặt với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) về "Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới" tiếp tục khẳng định: xây dựng đất nước phải đi đôi với bảo vệ Tổ quốc, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và trong khi tập trung sức xây dựng đất nước, chúng ta phải coi trọng, củng cố quốc phòng - an ninh.
Trong chiến tranh ta thực hiện "toàn dân đánh giặc", ngày nay phải thực hiện "toàn dân đấu tranh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc". Yêu cầu đó đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân phải có ý thức chính trị, ý thức tự giác trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chống lại sự phá hoại, xâm lược của bất kỳ kẻ thù nào. Vì vậy, đi đôi với việc ra sức xây dựng đất nước phải chấp hành thật tốt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc (bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia), giữ vững ổn định chính trị xã hội và định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế, bảo vệ nền văn hóa dân tộc. Kiên trì tiến hành cuộc đấu tranh toàn dân, toàn diện nhằm làm thất bại mọi âm mưu và hành động "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, chủ động đối phó thắng lợi với mọi tình huống có thể xảy ra.
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị cần thực hiện tốt các nhiệm vụ cơ bản sau:
- Giữ vững hòa bình, ổn định để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, kết hợp chặt chẽ với bảo vệ Đảng, bảo vệ vững chắc an ninh chính trị nội bộ.
- Nỗ lực thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế gắn với giải quyết tốt các vấn đề xã hội; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo công bằng xã hội, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đồng thời chủ động hội nhập quốc tế.
- Phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa đi đôi với việc tăng cường trật tự kỷ cương, chú trọng giải quyết các vấn đề dân tộc, tôn giáo, nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
- Tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của toàn dân; trong đó, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt.
- Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, mở rộng hợp tác quốc tế theo tinh thần "Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển".
2- Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh
Nền tảng vững chắc của nền quốc phòng toàn dân là sự ổn định về chính trị - xã hội, sự tin tưởng của toàn dân đối với đường lối đổi mới của Đảng, sự gắn bó mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, giữa quân và dân; sự vững chắc của khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Do đó, phải rất coi trọng xây dựng thế trận lòng dân. Ra sức xây dựng nền tảng chính trị, tiềm lực chính trị tinh thần ngày càng cao, tiềm lực kinh tế, tiềm lực khoa học công nghệ ngày càng mạnh, nâng cao sức khỏe và thể chất của nhân dân, tăng cường giáo dục quốc phòng.
Củng cố và phát huy sức mạnh chính trị, tinh thần của toàn dân trong tình hình mới; phải gắn chặt giữa tuyên truyền, giáo dục, khơi dậy lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lực, tự cường, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, tạo ra động lực lôi cuốn toàn dân vào các phong trào hành động cách mạng nhằm xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Trong điều kiện phức tạp hiện nay phải tiếp tục củng cố cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp quốc phòng toàn dân, đồng thời tăng cường vai trò quản lý nhà nước về quốc phòng. Xây dựng và củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở, xây dựng cơ sở vững mạnh về mọi mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa, an ninh, quốc phòng và trật tự xã hội. Xây dựng lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp có chất lượng cao. Phát huy truyền thống sử dụng sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị của nền quốc phòng toàn dân, toàn diện để bảo vệ Tổ quốc.
3- Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại
Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới cần phải tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội nhân dân. Tập trung mọi nỗ lực, nâng cao chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu của quân đội, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở, làm cho quân đội nhân dân luôn luôn là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Cán bộ và chiến sĩ trong quân đội phải ra sức học tập, rèn luyện, nâng cao mọi kiến thức, kỹ năng chuyên môn và năng lực hành động nhạy bén, sắc sảo trước những diễn biến phức tạp của tình hình, đủ sức làm lực lượng xung kích "tác chiến" cả trên mặt trận quân sự và chính trị, tư tưởng văn hóa, cùng toàn dân làm thất bại mọi âm mưu thủ đoạn "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch.
Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng huấn luyện và trình độ sẵn sàng chiến đấu, sức mạnh chiến đấu của quân đội. Xây dựng quân đội nhân dân có đời sống vật chất, tinh thần tốt; quản lý, khai thác, sử dụng có hiệu quả vũ khí, trang bị kỹ thuật, đảm bảo cho quân đội ta hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ.
Chăm lo, xây dựng nền công nghiệp, quốc phòng của đất nước. Chú trọng đầu tư thỏa đáng cho xây dựng công nghiệp quốc phòng từng bước phát triển công nghệ hiện đại, góp phần trang bị và hiện đại hóa cho các quân chủng, binh chủng.
Xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị. Các cấp, các ngành có trách nhiệm góp sức xây dựng quân đội nhân dân chăm lo xây dựng cả về chính trị, tư tưởng, về đời sống vật chất và đời sống văn hóa tinh thần, về trang bị vũ khí, phương tiện kỹ thuật... bảo đảm cho quân đội ta hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi trong mọi tình huống, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
***
70 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành dưới ánh sáng vinh quang ngọn cờ của Đảng và Bác Hồ kính yêu, Quân đội nhân dân Việt Nam cùng với toàn dân đã làm nên những thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945; đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội; bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; làm tròn nhiệm vụ quốc tế cao cả; xứng đáng là đội quân vũ trang cách mạng của nhân dân Việt Nam anh hùng.
Phấn khởi và tự hào kỷ niệm 70 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam và 25 năm Ngày Hội quốc phòng toàn dân, Đảng bộ, quân và dân thành phố Cần Thơ tiếp tục ra sức thi đua, đẩy mạnh các phong trào hành động cách mạng, quyết tâm thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2014; tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX, XI) “về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, lập nhiều thành tích xuất sắc chào mừng kỷ niệm các ngày lễ lớn trong năm 2015 và Đại hội đảng bộ các cấp, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
TÀI LIỆU TUYÊN TRUYỀN
25 năm thực hiện Ngày Hội Quốc phòng toàn dân
(22/12/1989 - 22/12/2014)
-------------
1- Quan niệm về quốc phòng toàn dân
Quốc phòng Việt Nam là nền quốc phòng toàn dân, bao gồm tổng thể các hoạt động về chính trị, kinh tế, ngoại giao, quân sự, văn hóa, khoa học,… của Nhà nước và nhân dân để tạo nên sức mạnh toàn diện, cân đối, đồng bộ, trong đó sức mạnh quân sự là đặc trưng, lực lượng vũ trang là nòng cốt, nhằm giữ vững hòa bình, ổn định đất nước, chăn chặn các hoạt động phá hoại, gây chiến, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, đồng thời sẵn sang đánh bại chiến tranh xâm lược dưới mọi hình thức và quy mô.
Nền quốc phòng toàn dân là sự cụ thể hóa chính sách quốc phòng của Việt Nam, thể hiện ở cơ cấu tổ chức, hoạt động của các ngành, các cấp và của toàn dân theo một ý định, chiến lược thống nhất, nhằm tạo ra sức mạnh hiện thực để bảo vệ Tổ quốc. Mục đích của nền quốc phòng toàn dân là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ an ninh quốc gia trên mọi lĩnh vực; bảo vệ chế độ; bảo vệ mọi thành quả cách mạng, bảo vệ sự nghiệp đổi mới, đồng thời ngăn chặn, đẩy lùi mưu toan gây bạo loạn, xung đột vũ trang, chiến tranh xâm lược, giữ vững môi trường hòa bình ổ định để công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đồng thời sẵn sang đánh bại mọi cuộc chiến tranh xâm lược. Mục tiêu xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong thời kỳ mới là nhằm không ngừng nâng cao sức mạnh quốc phòng của đất nước, ngăn ngừa và sẵn sang đánh thắng các loại hình chiến tranh xâm lược của kẻ thù trong mọi hoàn cảnh. Nền quốc phòng toàn dân được xây dựng theo phương hướng: toàn dân, toàn diện, tự chủ, tự lực, tự cường và ngày càng hiện đại.
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân là xây dựng cả lực lượng và thế trận; xây dựng tiềm lực mọi mặt, đặc biệt là tiềm lực chính trị - tinh thần; phát huy sức mạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng, kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị cho sự nghiệp bảo về Tổ quốc.
2- Sự ra đời của Ngày Hội quốc phòng toàn dân
Theo nguyện vọng của nhân dân cả nước, ngày 17/10/1989, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VI) đã ra Chỉ thị số 381-CT/TƯ quyết định lấy Ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam (22/12) đồng thời là Ngày Hội quốc phòng toàn dân. Từ đây ngày 22/12 thực sự trở thành ngày hội truyền thống bảo vệ Tổ quốc, ngày hội tôn vinh và nhân lên hình ảnh cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” - một nét độc đáo của văn hóa dân tộc Việt Nam trong thời đại mới. Đây cũng là dịp để phát huy truyền thống yêu nước, biểu dương sức mạnh đại đoàn kết dân tộc và quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hàng năm, toàn dân và toàn quân ta đã có rất nhiều hoạt động phong phú, sáng tạo để tổ chức kỷ niệm Ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam (22/12) - Ngày Hội quốc phòng toàn dân, như: Mít ting, hội thảo, hội nghị đoàn kết quân - dân, ngày hội văn hóa quân - dân, giáo dục truyền thống, tổ chức gặp mặt, thăm hỏi động viên các cựu chiến binh, cựu thanh niên xung phong, các gia đình liệt sĩ, thương, bệnh binh, thăm hỏi các đơn vị quân đội nhất là nơi biên giới và hải đảo; giao lưu văn hóa, văn nghệ, thi đấu thể dục, thể thao, hội thao quân sự trong các lực lượng vũ trang; xây dựng nhà tình nghĩa tặng các đối tượng chính sách; tham gia xây dựng, tu sửa, tôn tạo, nâng cấp nghĩa trang liệt sĩ, đài tưởng niệm, đền thờ liệt sĩ; tổ chức dâng hương tại nghĩa trang, nhà tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ…
Nhân dịp này, các cấp, các ngành, các cấp ủy và chính quyền địa phương đã rất chú trọng đẩy mạnh phong trào thi đua lao động sản xuất đạt hiệu qủa cao, gắn kết xây dựng và phát triển tiềm lực quốc phòng, an ninh qua các chương trình, các dự án phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương; nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục quốc phòng - an ninh trong toàn dân, động viên các tầng lớp nhân dân nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, chống “diễn biến hòa bình”; chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; vận động quần chúng nhân dân tích cực tham gia xây dựng và củng cố quốc phòng, xây dựng thế trận an ninh nhân dân, xây dựng cơ sở chính trị, trật tự an toàn xã hội, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; vận động thanh niên hăng hái lên đường bảo vệ Tổ quốc…
Từ năm 1989 đến nay, ngày 22/12 đã trở thành ngày hội lớn của toàn dân tộc với các hoạt động hướng vào chủ đề quốc phòng và quân đội, nhằm tuyên truyền sâu rộng truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc và phẩm chất cao đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”, giáo dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội; cổ vũ, động viên mỗi công dân chăm lo củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh trong tình hình mới.
3- Kết quả 25 năm thực hiện Ngày Hội quốc phòng toàn dân
Một là, nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc của toàn xã hội và sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân.
Đây là thành tựu cơ bản, phản ánh sâu sắc tính toàn dân, toàn diện và sức mạnh tổng hợp của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong 25 năm thực hiện Ngày Hội quốc phòng toàn dân. Tính chất toàn dân, toàn diện biểu hiện ở chỗ, nhận thức của các cấp, các ngành, của cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân ngày càng đầy đủ, sâu sắc hơn. Nhân dân đồng thuận, tin tưởng, đoàn kết và không ngừng nâng cao ý thức, trách nhiệm trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Cùng với Ngày Hội quốc phòng toàn dân chúng ta còn có Ngày Biên phòng toàn dân (3/3), Ngày Hội toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc (19/8)… Nhờ đó, đã phát triển mạnh mẽ các phong trào toàn dân tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; toàn dân tham gia xây dựng và củng cố quốc phòng; toàn dân tham gia xây dựng và bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới; toàn dân tham gia giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội… Đây là cơ sở quan trọng làm cho sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân gắn bó chặt chẽ với nhau, được củng cố, tăng cường cả về thế trận và lực lượng, nhất là trên các hướng, các địa bàn chiến lược, trọng yếu, nơi biên giới, biển đảo, vùng sâu, vùng xa.
Nhất là từ sau khi có các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tăng cường công tác giáo dục quốc phòng toàn dân trước tình hình mới, đã tạo cơ sở pháp lý để các ngành, các cấp, các tổ chức, đoàn thể chính trị - xã hội tăng cường hơn nữa công tác giáo dục quốc phòng - an ninh. Từ đó, công tác giáo dục quốc phòng - an ninh được triển khai, thực hiện tích cực, toàn diện ở các cấp, các ngành và toàn dân; Hội đồng giáo dục quốc phòng - an ninh được xây dựng hoàn thiện từ Trung ương đến cơ sở; hoạt động theo đúng quy chế và ngày càng đi vào chiều sâu, hiệu quả, thiết thực. Có thể thấy qua một số kết quả cụ thể như sau: từ 2005 đến nay, đã tổ chức huấn luyện quân sự, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh cho hơn 20 triệu lượt học sinh, sinh viên; 4,3 triệu dân quân tự vệ và dự bị động viên; mở 683 lớp bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh cho 43.419 chức sắc tôn giáo và 215 lớp cho 29.408 già làng, trưởng bản, người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số… Thông qua công tác huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng này đã góp phần nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, làm chuyển biến nhận thức của cán bộ, đảng viên, học sinh, sinh viên và các tầng lớp nhân dân đối với nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
Hai là, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định, hòa bình và an ninh cho sự phát triển đất nước; làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, góp phần quan trọng vào quá trình đổi mới đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Đây được xem là thành tựu to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta trong 25 năm thực hiện Ngày Hội quốc phòng toàn dân và 30 năm đổi mới đất nước. Chính vì thế, Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã nhận định: “Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, chế độ xã hội chủ nghĩa, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững”. Đến Nghị quyết trung ương 8 (khóa XI) cũng chỉ rõ những thành tựu như: giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình để xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; bảo vệ vững chắc chủ quyền, thống nhất, vẹn toàn lãnh thổ, lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa. Tiềm lực kinh tế, uy tín, vị thế quốc tế của đất nước được nâng cao; nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân được củng cố; tiềm lực quốc phòng - an ninh được tăng cường; sức mạnh tổng hợp của đất nước được nâng lên một bước.
Trong thực tiễn gần 30 năm đổi mới, đã khẳng định tính đúng đắn việc kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Bảo vệ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải kiên định mục tiêu, con đường đã chọn; kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đây là quan điểm mang tính nguyên tắc. Mặt khác, chúng ta kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa cơ hội, bảo vệ và phát triển lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ vai trò lãnh đạo của Đảng, bảo vệ Nhà nước, bảo vệ cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh còn có ý nghĩa quyết định trong giữ vững ổn định chính trị, độc lập chủ quyền và môi trường hòa bình của đất nước, tạo điều kiện thuận lợi cơ bản cho công cuộc đổi mới. Nhất là sau khi Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, Đảng và Nhà nước ta lại càng đề cao vai trò của nền quốc phòng toàn dân, như nhiều Hội của Đảng cũng đề cập đến vấn đề này (Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, lần thứ VIII…). Từ việc nắm vững các quan điểm chỉ đạo của Đảng, các ngành, cấp ủy các cấp, chính quyền địa phương, các đơn vị, tổ chức, đoàn thể chính trị - xã hội và lực lượng vũ trang đã phối hợp triển khai hiệu quả nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, góp phần trực tiếp vào thắng lợi của công cuộc đổi mới gần 30 năm qua. Đó là việc không ngừng bổ sung, phát triển lý luận và thực tiễn xây dựng nền quốc phòng toàn dân, độc lập, tự chủ, sáng tạo; khơi dậy và phát huy được tiềm năng và sức mạnh của toàn dân tộc, đưa đất nước vượt qua khó khăn, thách thức, vững bước đi lên; luôn tỉnh táo, nhạy bén trước biến động của tình hình; nắm vững quy luật dựng nước đi đôi với giữ nước; xác lập đúng đắn các quan hệ, đường lối, chủ trương, chính sách và đề ra nhiều giải pháp phù hợp để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng trong tình hình mới. Do vậy, đã từng bước huy động được sức mạnh tổng hợp của các ngành, các cấp địa phương, đơn vị, của cả hệ thống chính trị và toàn dân trong xây dựng tiềm lực quốc phòng; chỉ đạo có hiệu quả kết hợp quốc phòng với an ninh, quốc phòng với kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại.
Ba là, sức mạnh bảo vệ Tổ quốc được tăng cường, tăng thêm khả năng ngăn chặn, loại trừ nguy cơ chiến tranh và khả năng đối phó thắng lợi các tình huống chiến tranh, các tình huống xâm phạm an ninh quốc gia nếu xảy ra.
Đảng, Nhà nước, các ngành, các cấp, chính quyền các địa phương và lực lượng vũ trang luôn nhận thức sâu sắc rằng, sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòn toàn dân. Tiềm lực quốc phòng dựa trên nền tảng của tiềm lực chính trị - tinh thần, tiềm lực quân sự, tiềm lực kinh tế, tiềm lực khoa học kỹ thuật và công nghệ mà tiềm lực quân sự là tiêu biểu và là kết quả tổng hợp của các tiềm lực đó. Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc được tăng cường không chỉ bằng sức mạnh quân sự đơn thuần, sức mạnh của riêng lực lượng vũ trang, của quân đội nhân dân mà còn bởi sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân gắn với sức mạnh của nền an ninh nhân dân; được tạo điều kiện và hợp lực bởi sức mạnh chính trị, tư tưởng, kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; sức mạnh của tất cả các lực lượng và tiềm lực trên tất cả các lĩnh vực. Vì vậy, trong những năm qua, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã ra sức chăm lo xây dựng đất nước vững mạnh trên tất cả các mặt nói trên, nhằm tạo ra thế và lực mới, làm cho đất nước có đủ sức mạnh cần thiết răn đe, sẵn sàng đối phó hiệu quả với các nguy cơ xâm lược từ bên ngoài; hoặc có đủ sức mạnh để đánh bại các cuộc xung đột vũ trang, xâm lấn lãnh thổ, xâm hại độc lập chủ quyền quốc gia, dân tộc; đánh bại các cuộc bạo loạn ly khai dân tộc các hình thức khủng bố, sẵn sàng đánh bại những cuộc chiến tranh xâm lược bằng vũ khí công nghệ cao của các thế lực thù địch, nếu chúng gây ra.
Hiện nay, nền kinh tế nước ta còn hạn chế, trình độ khoa học - kỹ thuật - công nghệ còn thấp so với trình độ tiên tiến của thế giới, để có đủ khả năng đối phó với mọi tình huống, sức mạnh bảo vệ Tổ quốc của chúng ta vẫn phải là sức mạnh tổng hợp của quốc gia, của dân tộc, lấy sức mạnh quân sự làm nòng cốt. Đây chính là tính ưu việt của nền quốc phòng nước ta, nó có khả năng đứng vững trước mọi khó khăn thử thách, ứng phó với mọi tình huống khó khăn, phức tạp. Cơ sở của sức mạnh quốc phòng ngày nay chính là sức mạnh chính trị - tinh thần, là lòng dân, là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, là mối quan hệ máu thịt giữa nhân dân và Đảng. Vì thế Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành, cấp ủy chính quyền các địa phương đã thường xuyên chăm lo đến lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện dân chủ, công bằng xã hội; ngăn chặn những hiện tượng tiêu cực trong bộ máy Đảng, Nhà nước; tăng cường công tác giáo dục tư tưởng, chính trị, nâng cao nhận thức cảnh giác cách mạng, nhận rõ âm mưu, bản chất phản động của các thế lực thù địch; kịp thời đấu tranh với các biểu hiện cơ hội, suy thoái lòng tin, dao động, mơ hồ về bản chất của Chủ nghĩa Tư bản, Chủ nghĩa đế quốc. Trên cơ sở đó, khôi phục và củng cố lòng tin của nhân dân với chế độ, tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, tăng cường sự gắn bó máu thịt giữa quần chúng với Đảng, giữa quân và dân, sự đoàn kết giữa các dân tộc và tầng lớp nhân dân.
Thực tiễn 25 năm qua cho thấy, các thế lực thù địch chưa bao giờ từ bỏ dã tâm chống phá cách mạng nước ta. Chúng ra sức tuyên truyền, xuyên tạc đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, đòi thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, đòi “phi chính trị hóa” quân đội, đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Song nhờ có sức mạnh tổng hợp quốc gia, sức mạnh của đất nước được tăng cường, nên đã ngăn chặn và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, sẵn sang đối phó với mọi tình huống chiến tranh nếu xảy ra, cả chiến tranh thông thường, cũng như chiến tranh công nghệ cao với mọi quy mô, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.
Bốn là, hình thành thế chiến lược bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong điều kiện mới. Thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân bảo vệ Tổ quốc được triển khai rộng khắp, chặt chẽ và liên hoàn; “thế trận lòng dân” được củng cố vững chắc.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã đánh giá: “Thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân được củng cố”. Đây là thành tựu rất quan trọng sau 25 năm thực hiện Ngày Hội quốc phòng toàn dân. Thực tiễn cho thấy, trong những năm qua, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đã tích cực đẩy mạnh, triển khai thực hiện Nghị quyết 28-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa X) và Nghị định 152/2007/NĐ-CP “Về tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới”; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân ở từng khu vực và trên địa bàn cả nước. Kết quả là: tiềm lực về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quân sự và an ninh của khu vực phòng thủ được tăng cường, góp phần hình thành một thế trận tổng hợp, gắn kết, tích hợp cả thực lực quốc phòng, tiềm lực quốc phòng và tiềm năng quốc phòng tạo ra thế trận liên hoàn để bảo vệ Tổ quốc; khả năng bảo vệ địa bàn, ứng phó với các tình huống quốc phòng - an ninh được nâng cao; việc vận hành cơ chế lãnh đạo, điều hành hoạt động khu vực phòng thủ từng bước được hoàn thiện. Cơ quan quân sự địa phương đã phát huy tốt vai trò tham mưu giúp cấp ủy, chính quyền địa phương lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức xây dựng khu vực phòng thủ đi vào chiều sâu, vững chắc. Kết quả đó thiết thực góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thế trận quốc phòng toàn dân, gắn với thế trận an ninh nhân dân, nhất là “thế trận lòng dân” trên địa bàn quân khu, các tỉnh, thành phố; đảm bảo giữ vững ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế - xã hội phát triển, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Chúng ta đã thực hiện tốt việc phân vùng chiến lược về quốc phòng, an ninh gắn với vùng kinh tế chiến lược theo ý định xây dựng đất nước đi đôi với bảo vệ Tổ quốc. Trên mỗi địa bàn chiến lược, mỗi hướng chiến lược đã tổ chức hình thành thế bố trí chiến lược quốc phòng, an ninh gắn với phân vùng kinh tế trên địa bàn chiến lược tạo thành hậu phương của địa bàn. Bảo đảm trong thời bình, chúng ta có thể xây dựng và củng cố lực lượng quốc phòng, an ninh đủ mạnh để làm thất bại chiến lược “diễn biến hòa bình” kết hợp với bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; khi có chiến tranh xảy ra, chúng ta có thể phát huy mọi khả năng vốn có của các lực lượng, phương tiện, thực hành cơ động chiến lược kịp thời và linh hoạt, bảo đảm chỉ huy và hiệp đồng tác chiến thống nhất, thông suốt, đồng thời nâng cao khả năng độc lập tác chiến trong địa bàn, kể cả khi bị địch bao vây, chia cắt lực lượng ta.
Chúng ta đã xây dựng hậu phương chiến lược vững mạnh toàn diện và gắn kết chặt chẽ với xây dựng hậu phương các tỉnh, thành phố, huyện (quận, thị xã) tạo thành thế trận hậu phương liên hoàn vững chắc trong cả nước. Xây dựng thế trận phòng thủ trên các hướng, khu vực khác nhau, nhất là trên hướng, khu vực trọng điểm, gắn kết chặt chẽ với khu vực phòng thủ của địa phương, của các binh đoàn chủ lực cơ động, các quân binh chủng. Tổ chức bố trí, triển khai các lực lượng vũ trang và sở chỉ huy các cấp, các lực lượng một cách hợp lý, nhất là trên các địa bàn chiến lược, trọng yếu; bảo đảm có lực lượng chiến đấu tại chỗ rộng khắp, có lực lượng cơ động chiến đấu thích hợp và có lực lượng dự bị hùng hậu để sẵn sàng động viên, bổ sung khi cần thiết; bảo đảm vừa tự lực, độc lập, tác chiến, vừa hỗ trợ, chi viện lẫn nhau trong quá trình chiến đấu và có thể vừa tham gia chiến đấu, vừa phục vụ chiến đấu. Tổ chức hệ thống phòng thủ dân sự ở địa phương và cả nước chu đáo, chặt chẽ ngay cả trong thời bình và thời chiến để bảo vệ nhân dân, duy trì sản xuất và đời sống nhân dân; bảo vệ các cơ sở kinh tế, chính trị, văn hóa, quân sự; có các biện pháp phòng tránh, đánh trả và khắc phục hậu quả chiến tranh nếu xảy ra.
Chúng ta đã kết hợp chặt chẽ việc xây dựng cơ sở hạ tầng và tận dụng ưu thế địa hình tự nhiên sẵn có để phục vụ mục đích quốc phòng, an ninh. Trong đó, chú trọng xây dựng hệ thống đường giao thông cơ động lực lượng, phương tiện đường bộ, đường sông, đường không và đường biển rộng khắp; xây dựng mạng thông tin liên lạc ngày càng hiện đại, đáp ứng yêu cầu của tác chiến mới; bảo đảm hậu cần, kỹ thuật và các công trình quốc phòng như sân bay, bến cảng, cầu cống, hệ thống lưới điện quốc gia, hệ thống hầm, hào và công sự, trận địa chiến đấu nhằm phòng tránh có hiệu quả các cuộc tiến công, nhất là tiến công hỏa lực bằng đường không của địch.
Đối với việc xây dựng và củng cố thế trận an ninh nhân dân hiện nay, chúng ta đã kiện toàn tổ chức, biên chế, đổi mới xây dựng các lực lượng an ninh và cảnh sát; làm cho lực lượng này đủ mạnh để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ giữ vững an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội trong tình hình mới. Tăng cường tổ chức lực lượng cảnh sát cơ động chống khủng bố, chống bạo loạn lật đổ. Những lực lượng này đã được trang bị, huấn luyện phù hợp, chỉ huy thống nhất và bố trí trên các địa bàn chiến lược trọng yếu về quốc phòng, an ninh, nhất là trên biển Đông, biên giới Việt Nam và các nước láng giềng. Tích cực xây dựng các phương án, dự kiến các tình huống có thể xảy ra và tổ chức luyện tập thường xuyên theo phương án, tình huống đã xác định cho các lực lượng tham gia. Tập trung xây dựng và tổ chức huấn luyện theo các phương án: phòng, chống, xử lý hoạt động gây rối an ninh, trật tự ở từng địa bàn; hoạt động phá hoại và gây bạo loạn chính trị, xung đột vũ trang; hoạt động gián điệp, khủng bố và tội phạm xuyên quốc gia; các phương án khi xảy ra lấn chiếm, tranh chấp chủ quyền, biển đảo, tài nguyên thiên nhiên và xung đột vũ trang ở biên giới; phương án đối phó với chiến tranh xâm lược bằng vũ khí công nghệ cao của địch. Khi xử lý các tình huống xảy ra chúng ta luôn luôn thận trọng, tỉnh táo; phân tích, nhận định, đánh giá đúng tình hình, không chủ quan nóng vội; xử lý kiên quyết, kịp thời, khẩn trương, không để lan rộng, kéo dài và không để các thế lực thù địch tạo cớ can thiệp. Đặc biệt, trong những năm vừa qua, khi xử lý các tình huống gây rối, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, điển hình như vụ gây rối, bạo lạo ở Tây Nguyên (tháng 4/2004, tháng 4/2008), Sóc Trăng (tháng 2/2009), Mường Nhé (tháng 5/2011), vụ biểu tình phản đối Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương -981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trên vùng biển nước ta, ở các tỉnh Bình Dương và Hà Tĩnh (tháng 5/2014), chúng ta đã sử dụng các biện pháp chính trị, tư tưởng là chủ yếu; huy động các thành phần, lực lượng của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của cấp ủy đảng, sự điều hành của chính quyền các cấp và tham mưu của cơ quan công an, quân sự địa phương, kết hợp chặt chẽ với bộ đội địa phương và dân quân tự vệ hỗ trợ nhân dân đấu tranh.
Đồng thời, đã chú trọng hoàn thiện cơ chế, khả năng phối hợp hoạt động giữa các lực lượng, nhất là quân đội và công an, nhằm nâng cao hiệu quả phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý các tình huống về quốc phòng - an ninh. Trên cơ sở đó, đã phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của các bộ, ban, ngành, đoàn thể từ Trung ương đến địa phương, trong đó lực lượng vũ trang làm nòng cốt; đẩy mạnh đấu tranh quốc phòng trong thời bình, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và chủ động đối phó thắng lợi với chiến tranh xâm lược nếu xảy ra đối với nước ta.
Cùng với việc xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân, chúng ta đã ra sức xây dựng và củng cố “thế trận lòng dân” vững chắc. Đây là nội dung cơ bản, là vấn đề “mấu chốt” của thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân bảo vệ Tổ quốc của nước ta.
Nhận thức sâu sắc giá trị, ý nghĩa của “thế trận lòng dân” trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta khẳng định: “xây dựng thế trận lòng dân làm nền tảng phát huy sức mạnh của toàn dân tộc”. Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành đã tích cực kế thừa và phát huy những giá trị dân chủ truyền thống của dân tộc, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân; xây dựng cơ chế, chính sách cụ thể để quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân được thực hiện và hiện thực hóa. Tích cực phê phán và nghiêm trị những hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, chống tập trung quan liêu, khắc phục dân chủ hình thức Chủ động phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí; kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ XHCN. Tăng cường sự gắn bó mật thiết giữa nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và giữa Đảng, Nhà nước đối với nhân dân trong điều kiện lịch sử mới… Kết quả là: khối đại đoàn kết toàn dân tộc được tăng cường, mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và Nhà nước với nhân dân được củng cố; lòng tin của các tầng lớp nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý xã hội của Nhà nước, đối với chế độ XHCN và sự nghiệp đổi mới, vào thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN không ngừng được nâng cao. Người dân luôn quan tâm đến các vấn đề chính trị - xã hội của đất nước, trách nhiệm và ý thức công dân ngày một nâng cao không chỉ trong làm giàu, xây dựng, phát triển kinh tế, cả trong thực hiện các nhiệm vụ quân sự, quốc phòng - an ninh ở địa phương, cơ sở. Mối quan hệ quân - dân được tăng cường trên cơ sở sự nhất trí về chính trị - tinh thần, sự thống nhất về mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự vững chắc của “thế trận lòng dân”, là bức “thành đồng” chắc chắn, bảo đảm cho đất nước ta có đủ sức đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, không để xảy ra chiến tranh và đó cũng là nhân tố đảm bảo thắng lợi của công cuộc đổi mới trong suốt gần 30 năm qua.
Vấn đề có ý nghĩa quyết định trong xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc những năm vừa qua là Đảng, Nhà nước ta đã có đường lối, chủ trương đúng đắn và chính sách “hợp lòng dân”. Đảng ta khẳng định: “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân”. Thường xuyên quan tâm, chăm lo đến đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, nhất là các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào có đạo xóa đói, giảm nghèo… xây dựng nông thôn mới. Trong đó, ưu tiên thực hiện tốt chính sách xóa đói, giảm nghèo, giải quyết những khó khăn, bức xúc đang đặt ra ở các vùng đặc biệt khó khăn. Qua đó, giúp nhân dân luôn giữ vững niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước và chính quyền địa phương; đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn chia rẽ, gây mất đoàn kết trong nội bộ các dân tộc và đồng bào có đạo, kích động tâm lý ly khai và chống đối chế độ nhằm đẩy nhân dân đối đầu với Đảng, Nhà nước và chính quyền địa phương của các thế lực thù địch.
Năm là, lực lượng vũ trang mà nòng cốt là quân đội nhân dân có chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu ngày càng cao, phát huy được vai trò trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN
Sức mạnh của lực lượng vũ trang biểu hiện cụ thể ở việc hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong từng giai đoạn của cách mạng. Trong 25 năm thực hiện Ngày Hội quốc phòng toàn dân, thành tựu về giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng gắn liền với việc Đảng và Nhà nước, các cấp, các ngành, cấp ủy và chính quyền địa phương, các tầng lớp nhân dân đã tích cực chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Qua đó, chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang mà nòng cốt là quân đội nhân dân đã được nâng lên một bước; kịp thời ngăn chặn, dập tắt các vụ bạo loạn, gây rối chính trị, vô hiệu hóa hoạt động của các đối tượng phản động trong và ngoài nước, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Vai trò của lực lượng vũ trang được biểu hiện không chỉ trong việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội, bảo đảm môi trường thuận lợi cho công cuộc xây dựng, mà còn trực tiếp tham gia có hiệu quả, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng đất nước.
Sự nghiệp xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại có chuyển biến quan trọng. Các cấp luôn đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị làm cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác tư tưởng, tập trung giáo dục, xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, giữ vững, tăng cường bản chất giai cấp công nhân, phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” và truyền thống tốt đẹp của quân đội. Nhận thức của cán bộ, chiến sĩ về nhiệm vụ của cách mạng, của quân đội được nâng cao, giữ vững niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng. Đẩy mạnh thực hiện việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đi vào chiều sâu, thành sinh hoạt thường xuyên, tự giác của các tổ chức và từng cá nhân. Đặc biệt, quân đội đã đấu tranh có hiệu quả trên lĩnh vực chính trị - tư tưởng, tích cực, chủ động, phản bác các quan điểm sai trái, phản động; phòng ngừa, ngăn chặn âm mưu “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch, hòng gây mất ổn định nội bộ, chia rẽ quân đội với Đảng, Nhà nước và nhân dân. Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở có chuyển biến tiến bộ, nội bộ đoàn kết thống nhất, giữ nghiêm kỷ luật, giữ vững và phát huy bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ” trong giai đoạn mới.
Quân đội đã có bước điều chỉnh về tổ chức, cả lực lượng thường trực và lực lượng dự bị theo hướng: tinh, gọn, mạnh, có khả năng cơ động cao, tạo sự cân đối hợp lý giữa các thành phần lực lượng, các quân chủng, binh chủng; giải quyết đúng đắn, hợp lý mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng, giữa con người và vũ khí. Trang bị vũ khí của quân đội được đầu tư đúng mức, có bước phát triển quan trọng, kết hợp chặt chẽ giữa cải tiến vũ khí, trang bị hiện có với đầu tư mua sắm mới, ưu tiên hiện đại hóa hải quân, phòng không - không quân, thông tin liên lạc, tác chiến điện tử và trinh sát kỹ thuật bước đầu có hiệu quả.
Công tác huấn luyện của các đơn vị đã được coi trọng và tiếp tục đổi mới toàn diện. Trong đó, đã bám sát và thực hiện tốt phương châm: “cơ bản, thiết thực, vững chắc” đẩy mạnh đổi mới nội dung, phương pháp huấn luyện; chú trọng huấn luyện toàn diện, đồng bộ cho mọi đối tượng, bao gồm cả chỉ huy, cơ quan, chiến sĩ và phân đội. Các đơn vị quân đội đã tăng cường huấn luyện dã ngoại, huấn luyện đêm, hành quân xa, mang vác nặng qua các địa hình, tập luyện xử trí các tình huống trong cơ động phòng tránh, đánh trả đòn hỏa lực ban đầu của địch; huấn luyện sát thực tế chiến đấu, sát nhiệm vụ, sát phương án, tình huống, địa bàn hoạt động của từng đơn vị, phù hợp với khả năng trang bị và nghệ thuật quân sự của ta trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc; huấn luyện cho bộ đội sử dụng thành thạo vũ khí, trang bị trong biên chế, làm chủ và khai thác tốt các loại vũ khí, phương tiện kỹ thuật hiện đại mới được trang bị. Coi trọng bồi dưỡng cán bộ, tăng cường huấn luyện, diễn tập hiệp đồng tác chiến quân chủng, binh chủng trên các địa bàn, diễn tập khu vực phòng thủ, đáp ứng yêu cầu tác chiến trong điều kiện mới, nhất là tác chiến biển, đảo…
Công tác giáo dục đào tạo trong các nhà trường quân đội đã có bước phát triển, quy mô mở rộng, chất lượng được nâng lên, đáp ứng nguồn nhân lực cho quân đội. Hệ thống nhà trường quân đội thường xuyên được kiện toàn; chương trình, nội dung đào tạo, phương pháp giảng dạy thường xuyên được đổi mới; chất lượng đội ngũ nhà giáo ngày càng được nâng lên; cơ sở vật chất, trang thiết bị đào tạo được quan tâm đầu tư. Công tác nghiên cứu khoa học nghệ thuật quân sự, khoa học xã hội và nhân văn quân sự tiếp tục được đẩy mạnh và đổi mới theo hướng cập nhật thực tiễn, nhất là các loại hình chiến tranh, xung đột vũ trang mới và các hình thức tác chiến mới xuất hiện. Đồng thời, chú trọng kết hợp phát triển những kinh nghiệm chiến đấu đã được tổng kết với tăng cường nghiên cứu nghệ thuật tác chiến bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhằm không ngừng phát triển nền nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân Việt Nam.
Công nghiệp quốc phòng đã đạt được một số kết quả quan trọng; trình độ công nghệ, năng lực sản xuất, chất lượng sản phẩm được nâng lên. Đầu tư cho công nghiệp quốc phòng được chú trọng, định hướng, sử dụng ngân sách có hiệu quả. Khả năng sản xuất vũ khí, trang bị được nâng cao. Đã sản xuất được một số sản phẩm mới, có sản phẩm đạt trình độ tiên tiến, nhất là ngành đóng tàu quân sự, sản xuất thuốc phóng, thuốc nổ, khí tài phòng hóa, thông tin liên lạc, đáp ứng một phần nhu cầu vũ khí, trang bị kỹ thuật cho lực lượng vũ trang, tiết kiệm ngân sách Nhà nước. Công tác bảo đảm hậu cần trong các đơn vị quân đội được quan tâm chỉ đạo, tổ chức chặt chẽ, đời sống bộ đội được cải thiện rõ rệt, thế trận hậu cần từng bước được bổ sung, hoàn chỉnh theo phương án, quyết tâm bảo vệ Tổ quốc. Công tác kỹ thuật được triển khai toàn diện, duy trì bảo đảm tốt vũ khí, trang bị hiện có, từng bước khắc phục tình trạng thiếu đồng bộ, hư hỏng, xuống cấp vũ khí, trang bị. Thực hiện đơn vị vững mạnh toàn diện, đi vào chiều sâu; các đơn vị quân đội đã tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, đẩy mạnh xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật, làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp, trình độ, khả năng chiến đấu của quân đội.
Cùng với xây dựng quân thường trực vững mạnh, chúng ta đã quan tâm xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, dân quân tự vệ rộng khắp, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống. Quán triệt thực hiện Pháp lệnh về lực lượng Dự bị động viên (1996), những năm qua, các bộ, ngành Trung ương và các địa phương đã duy trì thực hiện có nền nếp chế độ đăng ký, quản lý quân nhân dự bị, phương tiện kỹ thuật có nền kinh tế quốc dân. Đến nay, các bộ, ngành Trung ương và địa phương đã đăng ký và quản lý được hàng triệu quân nhân dự bị, trong đó có hàng vạn sĩ quan dự bị, hàng triệu phương tiện kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân; sắp xếp đủ đầu mối tổ chức các đơn vị dự bị động viên; chất lượng các đơn vị dự bị động viên từng bước được nâng cao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Trong xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, cấp ủy các cấp đã tập trung lãnh đạo, lấy việc nâng cao chất lượng chính trị làm chính, có số lượng phù hợp theo quy định của
Luật Dân quân tự vệ (2009). Các bộ, ngành Trung ương và địa phương đã chỉ đạo làm tốt việc đăng ký, quản lý công dân trong độ tuổi dân quân tự vệ; tỷ lệ dân quân tự vệ so với dân số toàn quốc ngày một tăng lên và chất lượng không ngừng được nâng cao. Tổ chức, biên chế lực lượng phù hợp với tình hình thực tiễn và tính chất hoạt động của dân quân tự vệ; có lực lượng cơ động, chiến đấu tại chỗ và lực lượng binh chủng, lực lượng dân quân tự vệ hoạt động trên biển theo sự chỉ đạo của cơ quan quân sự địa phương. Coi trọng việc củng cố, kiện toàn đội ngũ cán bộ Ban Chỉ huy quân sự đủ số lượng và đảm bảo chất lượng. Đến nay, có 56 bộ, ngành Trung ương đã tổ chức Ban Chỉ huy quân sự; hàng nghìn Ban Chỉ huy quân sự đơn vị thành viên thuộc các bộ, ngành Trung ương và các cơ quan, tổ chức thuộc cấp tỉnh, cấp huyện được kiện toàn. Kết hợp chặt chẽ công tác quy hoạch cán bộ cấp xã với củng cố, kiện toàn đội ngũ cán bộ xã đội; toàn quốc đã bổ nhiệm đủ 100% cán bộ xã đội trưởng và chính trị viên. Công tác đào tạo cán bộ quân sự cấp xã được chú trọng; đến nay, toàn quốc đã đào tạo được 19.073 cán bộ, đây là khâu đột phá trong việc đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở, được Bộ Nội vụ, các bộ, ngành Trung ương, các quân khu, cấp ủy và chính quyền địa phương các cấp đánh giá cao. Công tác huấn luyện quân sự, chính trị cho dân quân tự vệ có nhiều đổi mới, chất lượng không ngừng nâng cao; hoạt động của dân quân tự vệ thực hiện theo đúng nhiệm vụ quy định tại Pháp lệnh Dân quân tự vệ.
Những thành tựu cơ bản đạt được sau 25 năm thực hiện Ngày Hội quốc phòng toàn dân đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới của đất nước; sức mạnh về mọi mặt được tăng cường, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao; tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn trong giai đoạn mới.
BAN TUYÊN GIÁO THÀNH ỦY
(Theo nguồn Ban Tuyên giáo Trung ương
và Tổng Cục chính trị, Bộ Quốc phòng)